Thời đại Dreadnought Thiết_giáp_hạm

Xem thêm: Dreadnought

Năm 1906, Hải quân Hoàng gia Anh cho hạ thủy chiếc thiết giáp hạm mang tính cách mạng HMS Dreadnought. Được hình thành như là kết quả của áp lực từ Đô đốc Sir John "Jackie" Fisher, HMS Dreadnought khiến cho mọi thiết giáp hạm đang có trở thành lạc hậu. Kết hợp một dàn "toàn súng lớn" mười khẩu 305 mm (12 inch) với tốc độ và sự bảo vệ chưa từng có, nó khiến hải quân các nước toàn thế giới phải đánh giá lại chương trình chế tạo thiết giáp hạm của mình. Trong khi Nhật đã đặt lườn một chiếc thiết giáp hạm toàn súng lớn, chiếc Satsuma, vào năm 1904,[26] và khái niệm tàu chiến toàn súng lớn đã lưu truyền trong nhiều năm, nó chưa hề được kiểm nghiệm trong chiến đấu. Dreadnought đã dấy nên một cuộc chạy đua vũ trang mới, chủ yếu là giữa Anh và Đức nhưng được phản ảnh khắp thế giới, vì lớp tàu chiến mới trở thành một yếu tố quyết định trong sức mạnh của quốc gia. Sự phát triển kỹ thuật tiếp diễn nhanh chóng trong suốt thời đại dreadnought, với những thay đổi về vũ khí, vỏ giáp và động lực. Mười năm sau khi Dreadnought được đưa ra hoạt động, những con tàu mạnh mẽ hơn, "siêu-dreadnought", được chế tạo.

Nguồn gốc

Đô đốc Vittorio Cuniberti.

Trong những năm đầu của Thế kỷ XX, hải quân nhiều nước khắp thế giới đã thử nghiệm ý tưởng về một kiểu thiết giáp hạm mới có dàn hỏa lực đồng nhất gồm những khẩu pháo có cỡ nòng rất lớn.

Đô đốc Vittorio Cuniberti, nhà thiết kế chính của Hải quân Italy (Regia Marina), đã đưa ra một khái niệm về một thiết giáp hạm toàn súng lớn vào năm 1903. Khi Hải quân Ý không theo đuổi những tư tưởng của ông, Cuniberti đã viết một bài đăng trên tạp chí Jane's Fighting Ships đề nghị một kiểu thiết giáp hạm Anh Quốc "lý tưởng" trong tương lai, một tàu chiến bọc thép lớn tải trọng 17.000 tấn, trang bị thuần một cỡ pháo gồm 12 khẩu 305 mm (12 inch), mang một đai giáp dày 300 mm (12 inch) và có khả năng đạt được tốc độ 44 km/h (24 knot).[27]

Cuộc Chiến tranh Nga-Nhật đã cung cấp những kinh nghiệm hoạt động cho hiệu lực của khái niệm "toàn súng lớn". Trong các trận Hải chiến Hoàng HảiTsushima, thiết giáp hạm tiền-dreadnought đã đấu pháo ở khoảng cách 7–11 km (7.600–12.000 yard), bên ngoài tầm bắn của dàn pháo hạng hai. Đã có lập luận cho rằng những cuộc đối đầu này chứng tỏ tầm quan trọng của cỡ pháo 305 mm (12 inch) so với các cỡ nhỏ hơn, mặc dù một số sử gia có quan điểm rằng pháo hạng hai có tầm quan trọng tương đương vũ khí cỡ lớn.[1]

Tại Nhật Bản, hai thiết giáp hạm được chế tạo trong Chương trình 1903-1904 là những chiếc đầu tiên được đặt lườn theo thiết kế toàn súng lớn, với tám khẩu 305 mm (12 inch). Tuy nhiên, lớp vỏ giáp được thiết kế quá mỏng, buộc phải tái thiết kế sau đó.[28] Áp lực tài chính của cuộc chiến tranh Nga-Nhật và sự thiếu hụt trong việc cung cấp cỡ pháo 305 mm (12 inch) vốn phải nhập khẩu từ Anh khiến các con tàu được hoàn tất với dàn hỏa lực hỗn hợp 10 và 12 inch. Thiết kế 1903-1904 cũng giữ lại kiểu động cơ hơi nước ba buồng bành trướng đặt dọc.[29]

Một thiết kế sơ thảo của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, Satsuma là một thiết kế "toàn súng lớn".

Ngay từ năm 1904, Jackie Fisher đã nghĩ đến nhu cầu về một kiểu thiết giáp hạm nhanh, mạnh, với hỏa lực toàn pháo lớn. Nếu như trận Tsushima ảnh hưởng đến suy nghĩ của ông, nó chỉ để thuyết phục ông cần phải chuẩn hóa cỡ pháo 305 mm (12 inch).[1] Mối lo ngại chính của Fisher là sự đe dọa của tàu ngầmtàu khu trục trang bị ngư lôi có thể tấn công bên ngoài tầm súng của thiết giáp hạm, khiến cho tốc độ là một nhu cầu bắt buộc đối với các tàu chiến chủ lực.[1] Giải pháp được Fisher ưa chuộng chính là đứa con tinh thần của ông: những tàu chiến-tuần dương (en:battlecruiser), có vỏ giáp nhẹ nhưng được trang bị vũ khí hạng nặng với tám khẩu pháo 305 mm (12 inch) và tốc độ đạt đến 46 km/h (25 knot) nhờ động cơ turbine hơi nước.[30]

Nhằm để chứng minh kỹ thuật mang tính cách mạng này mà Dreadnought được thiết kế vào tháng 1 năm 1905, đặt lườn vào tháng 10 năm 1905 và được thúc đẩy để hoàn tất vào năm 1906. Nó mang mười khẩu pháo 305 mm (12 inch), có đại giáp dày 280 mm (11 inch), và là chiếc tàu lớn đầu tiên được trang bị động cơ turbine. Nó bố trí các khẩu pháo chính trên năm tháp pháo: ba chiếc dọc theo trục giữa tàu (một phía trước, hai hướng ra sau) và hai chiếc bên lườn tàu, cho phép nó bắn qua mạn tàu gấp đôi mọi tàu chiến đang hoạt động. Nó giữ lại một số pháo 12-pounder QF (3-inch, 76 mm) để đối phó với tàu khu trục và tàu phóng lôi. Lớp vỏ giáp của nó đủ dày để đối đầu và đấu pháo tay đôi với mọi tàu chiến khác.[31]

Thiết giáp hạm HMS Dreadnought (1906), đánh dấu một thế hệ thiết giáp hạm mang tên nó

Dreadnought được tiếp nối bởi ba tàu chiến-tuần dương thuộc lớp Invincible, việc chế tạo chúng được trì hoãn để các bài học có được từ Dreadnought được sử dụng trong thiết kế của chúng. Trong khi Fisher dự định Dreadnought sẽ là thiết giáp hạm cuối cùng của Hải quân Hoàng gia,[1] thiết kế này tỏ ra thành công đến mức ông ít nhận được sự hỗ trợ cho kế hoạch chuyển sang một hải quân trang bị tàu chiến-tuần dương. Cho dù có một số vấn đề đối với con tàu (tháp pháo bên mạn tàu có góc bắn giới hạn và làm căng lườn tàu khi bắn toàn bộ hỏa lực qua mạn tàu, cũng như phần trên của đoạn đai giáp dày nhất ở bên dưới mực nước khi đầy tải), Hải quân Hoàng gia tiếp tục đưa ra hoạt động sáu tàu có thiết kế tương tự thuộc các lớp BellerophonSt Vincent.

Một thiết kế của Mỹ, South Carolina, được chấp thuận vào năm 1905 và đặt lườn vào tháng 12 năm 1906, là một trong những dreadnought đầu tiên khác, nhưng nó cùng với con tàu chị em Michigan chỉ được hạ thủy vào năm 1908. Cả hai chiếc đều sử dụng động cơ hơi nước ba buồng bành trướng đặt dọc và có sự bố trí dàn pháo chính ưu việt, loại bỏ các tháp pháo mạn như trên Dreadnought. Chúng vẫn giữ cùng số pháo bắn qua mạn tàu cho dù có ít hơn hai khẩu pháo.

Chạy đua vũ trang

Vào năm 1897, trước khi có cuộc cách mạng trong thiết kế mà chiếc HMS Dreadnought đem lại, Hải quân Hoàng gia có 62 thiết giáp hạm đang hoạt động hay đang chế tạo, nhiều hơn 26 chiếc so với Pháp và 50 với Đức.[23] Đến năm 1906, Hải quân Hoàng gia lại chiếm được ưu thế với Dreadnought. Lớp tàu chiến mới đã tạo ra cuộc chạy đua vũ trang với những hậu quả chiến lược lớn. Các cường quốc hải quân bắt đầu chạy đua chế tạo dreadnought của riêng họ. Việc sở hữu những thiết giáp hạm hiện đại không chỉ là cần thiết cho sức mạnh hải quân; nhưng cũng như vũ khí nguyên tử ngày nay, chúng đại diện cho vị thế của một nước trên thế giới.[1] Đức, Pháp, Nga, Ý, Áo và Hoa Kỳ tất cả đều khởi động những chương trình dreadnought; trong khi các cường quốc hạng hai bao gồm Thổ Nhĩ Kỳ, Argentina, Brazil và Chile đưa vào hoạt động những "dreadnought" chế tạo tại các xưởng đóng tàu Anh và Mỹ.[32]

Liên quan

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Thiết_giáp_hạm http://www.airforce-magazine.com/MagazineArchive/P... http://www.chuckhawks.com/super_battleships_projec... http://www.combinedfleet.com/b_fire.htm http://www.combinedfleet.com/baddest.htm http://www.global-defence.com/1997/DefencePower.ht... http://vdict.com/battleship,1,0,0.html http://www.congress.gov/cgi-bin/cpquery/?sel=DOC&&... http://www.gpoaccess.gov/serialset/creports/pdf/hr... http://archive.is/20120710113839/findarticles.com/... http://www.chinfo.navy.mil/navpalib/ships/battlesh...